Từ xa xưa, thảo quả không chỉ được sử dụng như một loại thực phẩm tiêu dùng hàng ngày mà còn sử dụng chúng như các vị thuốc có ích cho sức khỏe. Thảo quả khô rất giàu chất dinh dưỡng, chất xơ, vitamin A, C, D, niacin, pyridoxine, carbohydrate, protein và khoáng chất (như kẽm, đồng và sắt) rất tốt cho sức khỏe. Thảo quả đã được nhân dân sử dụng từ lâu đời, đồng thời đây cũng được coi là một loại gia vị thơm ngon, bổ dưỡng trong ẩm thực.
Thảo quả từ lâu đã được sử dụng như một loại gia vị và thảo mộc. Do đặc tính thơm, ngọt và cay nên thảo quả được coi là “nữ hoàng” của các loại gia vị. Thảo quả còn là một vị thuốc hay chữa các bệnh về đường tiêu hóa.
Tổng quan về thảo quả
Thảo quả là gì?
Thảo quả (tên tiếng Anh là Cardamom) là một loại gia vị mà mọi người đã sử dụng trong nhiều thế kỷ trong chế biến món ăn và làm thuốc. Ban đầu, đây là loại gia vị phổ biến trong nền ẩm thực Trung Đông và Ả Rập, tuy nhiên, ngày này, thảo quả cũng đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thảo quả xuất phát từ hạt của một số loại cây khác nhau thuộc cùng họ với gừng. Nó có một hương vị đặc biệt được dùng bổ sung cho cả các món ăn ngọt và mặn. Mọi người có thể sử dụng hạt thảo quả và vỏ quả trong các món cà ri, món tráng miệng và các món thịt, cũng như trong đồ uống, chẳng hạn như cà phê và trà chai Ấn Độ (chai tea).
Có các dạng sản phẩm của thảo quả như:
- Toàn bộ vỏ với hạt bên trong.
- Bột gia vị thảo quả trước khi xay.
- Tinh dầu thảo quả.
- Thực phẩm chức năng ở dạng viên nang.
Mô tả cây
Tên dân gian: thảo quả còn gọi là đò ho, tò ho, mac hâu, may mac hâu.
Tên khoa học: Amomum tsaoko Crevost et Lem. Họ Gừng (Zingiberaceae).
Thảo quả không chỉ là một gia vị trong nhiều món ăn mà còn là một cây thuốc quý, loại thảo, sống lâu năm, cao chừng 2,5 – 3m. Thân rễ mọc ngang, có đốt, đường kính chừng 2,5 – 4cm, giữa có màu trắng nhạt, phía ngoài màu hồng, mùi thơm. Lá mọc so le, có lá có cuống, có lá không cuống, bẹ lá có khía dọc, phiến lá dài 60 – 70cm, rộng tới 20cm, mặt trên phiến lá màu xanh thẫm, mặt dưới hơi mờ, mép lá nguyên. Cụm hoa bông, mọc từ gốc, dài chừng 13 – 20cm, hoa màu đỏ nhạt, mỗi bông nhiều quả, khi chín quả màu đỏ nâu, dài 2,5 – 4cm, rộng 1,5 – 2cm. Vỏ quả ngoài dày 5mm, quả chia làm 3 ô, mỗi ô có độ 7 – 8 hạt rất thơm, có áo hạt hình tháp, ép vào nhau.
Phân bố
Thảo quả mọc hoang hoặc là được trồng ở những nơi có vùng núi cao hơn 1000m, được trồng dưới tán rừng cây to, đất ẩm nhiều mùn, khí hậu mát lạnh.
Ở Việt Nam được trồng ở các vùng gần dãy núi Hoàng Liên Sơn và Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Yên Bái và các vùng Tây Bắc … Nơi có số lượng thảo quả lớn nhất đó là huyện Bát Xát ( Lào Cai ).
Thảo quả còn được trồng ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây Trung Quốc.
Thu hái, sơ chế
Lựa quả chưa chín, hái về phơi hoặc sấy nhẹ lửa cho khô (thường 3 – 4 ngày). Quả khô sẽ ngả màu xám nâu nhạt, nhiều nếp nhăn dọc và thường phủ 1 lớp phấn trắng. Khi nào dùng mới bóc vỏ ngoài lấy hạt, nếu bóc ngay sẽ mất mùi thơm.
Bào chế thảo quả dược liệu
Dùng cám hòa với nước sôi cho dẻo, bọc thảo quả rồi nướng; bỏ xác và xơ trắng ở bên trong đi, để dành dùng (Trung Quốc dược học đại từ điển).
Dùng bột mì trộn với nước sôi cho dẻo, bọc thảo quả, nướng chín; bỏ vỏ lấy nhân dùng (Đông dược học thiết yếu).
Ngoài ra còn có thể dùng trực tiếp thảo quả khô để chế biến.
Thành phần hóa học của thảo quả
Trong thảo quả có tinh dầu chừng 1 – 3%. Tinh dầu màu vàng nhạt mùi thơm, ngọt, vị nóng cay; dễ chịu tác dụng dược lý của thảo quả.
Nước sắc 0,25 – 0,75% của thảo quả có tác dụng hưng phấn ruột cô lập của súc vật thí nghiệm (Trung dược học).
Tính vị: thảo quả vị cay, tính ôn không độc. Quy kinh Tỳ Vị.
Các công dụng của quả thảo quả
Thảo quả có tác dụng trục hàn, ráo thấp, trừ đờm, ấm bụng, tiêu tích, giúp ăn ngon miệng.
Liều dùng: 3 – 6g, uống độc vị hoặc phối hợp với nhiều loại thuốc sắc uống.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc thảo quả khô.
Trị sốt rét: thảo quả nhân 4g, thục phụ tử 10g, sinh khương 3 lát, đại táo 3 quả; sắc uống (trích Quả phụ thang – Tế sinh phương).
Trị bụng đau, bụng đầy do hàn thấp tích trệ: thảo quả (nướng) 6g, hậu phác, hoắc hương đều 10g; thanh bì, bán hạ, thần khúc đều 6g, cao lương khương 6g; đinh hương, cam thảo đều 4g, sinh khương, đại táo 10g; sắc uống (trích Thảo quả ẩm – Sổ tay lâm sàng Trung dược).
Trị sốt rét: thảo quả nhân 2g, tán bột, bọc trong miếng gạc, trước khi lên cơn; nhét vào 1 bên lỗ mũi (trích Sổ tay lâm sàng Trung dược).
Trị tiêu hóa rối loạn do ăn uống, không tiêu, tích thực, gây vùng thượng vị đầy đau: thảo quả (nướng) 6g, thương truật, hậu phác, trần bì; sinh khương đều 10g, cam thảo 4g, đại táo 3 quả; sắc uống (trích Thảo quả bình vị tán – Sổ tay lâm sàng Trung dược).
Trị miệng hôi: thảo quả giã dập, ngậm nuốt dần (trích Dược liệu Việt Nam).
Trị sốt rét, tiêu chảy: thảo quả khô 10g, kha tử 10g, gừng sống 7 lát, táo đen 7 quả, nước 300ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày (Dược liệu Việt Nam).
Dùng thận trọng đối với chứng âm huyết hư vì tính ôn táo của thuốc dễ làm tổn thương âm huyết.
Nguồn: chiecthiavang.com